Unknown

Tra rồi, Tết về nhớ tiếng sắc bùa, nhớ nồi thịt lợn đông - Cù Lú




Nhoáng một cấy đạ hết năm hết tháng
Tết đìn nơi ta vẫn cặm cụi đi mần
Và cha ơi nghị răng mà buồn
Tra hết rồi còn tết nhít chi nựa

Nhoáng cấy Tết đà tràn ngoài cựa
Ta vận ở nơi xa cặm cụi nhớ cố hương
Mai mốt đây người về vui kẻ ở buồn
Tết nhít chi , tết nhít chi rứa hẻ



(Ai đưng về, chuẩn bị về, kể ta nghe cấy mổ :) )

Mình ở Kỳ Văn, quá khứ ngày nhỏ nhựng lần chờ Tết, khung bao giờ quên được là tiếng trống Sắc bùa. Nhựng đêm mùa đông đói rét cắt da xẻo thịt, ngồi trùm chăn học bài bên ngọn đìn dầu heo hắt. Mà ngủ gật lên gật xuống. Rứa nhưng cuối tháng 11 âm, khi ngài ta tập Sắc bùa, chi cần nghe tiếng trống thôi là như uống Vigra, học vô sinh gớm, khung ngủ rục ngủ riệc chi cả. Và chà, là khi nớ nghe sắc bùa là nghị ghin đìn tết rồi. Nghị được ăn bính chưng, được nghỉ học, khung phẩy đi dự trâu, có ấu mới, có tiền mừng tuổi...chao ôi, hần sướng. Nghị thôi mà nác ménh chảy ướt sách ì, rứa là học vô suột suột. Tụng tụng cồng, tà rụng tụng cồng. Đó, tiếng Sắc bùa rứa đó. 



Nhưng cù lẹ, cấy mần ta nhớ nhít, những ngày tết đói khổ của trị con ấy là: Nồi thịt lựn đông. Nôi thịt lựn đông, ngồi coi mẹ xắt, coi mẹ nấu mà chảy nác méng vì không được ăn. Rồi sau đó trong bựa cơm chỉ được ăn méng da, méng tép mợ. Ngồi xỉa răng mơ đến 30. Mẹ treo thịt lên gióng, đi dự trâu về chạy vô đứng ngông lên coi cù chộ nùi thịt đó nựa khung...rôi nói răng lâu đến 30 đê mà ăn thịt rứa he, lâu rứa lắm he, huhu.̀...

Và cha ơi, khung biết vì răng, không phải vì đói, mà có thể vì nhựng năm tháng ấy chỉ đi qua mụt lần trong đời. Khắc quá sâu trong tâm khảm, trong yêu thương. Mà cứ tưởng mới bựa qua. Da diết khiếp. Da diết khiếp quá đi thôi.
__

Tết đến, Cù Lú viết những dòng cảm xúc trên fanpage facebook Hội Đồng Hương Kỳ Anh, và cả bài ni nựa: Ở quê chừng ni e rét run râu ì hè...

Người Kỳ Anh


Read More
Unknown

Hà Tĩnh: Tông chết thiếu úy công an, xe 16 chỗ rồ ga bỏ chạy



Trên đường đi làm, thấy bạn đang bốc hàng bên vệ đường. Anh Hồ Minh D. (SN 1992, trú tại xã Kỳ Khang, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh, công tác tại Công an huyện Kỳ Anh) qua đường để giúp bạn thì bị chiếc xe khách 16 chỗ tông chết. Sau khi gây tai nạn tài xế đã lái xe bỏ trốn.

Hình ảnh chỉ mang tính chất minh họa (ảnh Công Lý)


Theo thông tin từ công an xã Kỳ Khang, huyện Kỳ Anh cho biết, vào lúc 21h ngày 30/1, trên QL1A đoạn ngã ba cổng chào xã Kỳ Khang, huyện Kỳ Anh đã xảy ra một vụ tai nạn giao thông khiến một người tử vong.

Nạn nhân là anh Hồ Minh D. (SN 1992, trú tại xóm Sơn Hải, xã Kỳ Khang, huyện Kỳ Anh), hiện đang công tác tại Đội điều tra, Công an huyện Kỳ Anh.

Theo lời kể của một người dân chứng kiến sự việc, vào thời điểm đó, anh D. đang trên đường đi làm. Khi qua đoạn đường trên, thấy bạn đang bốc chiếc xe máy gửi hàng từ Hà Nội về, anh liền cho xe dừng lại và qua đường để hỗ trợ bạn.


Trong lúc đang qua đường thì bất ngờ một chiếc xe khách 16 chỗ (chưa rõ danh tính và biển số xe) chạy theo hướng Bắc – Nam húc lên người, khiến nạn nhân bị văng ra xa hơn 2m, nằm lăn giữa đường.

Ngay sau đó anh D. được người dân đưa ra bệnh viện Đa Khoa Hà Tĩnh để cấp cứu, nhưng do chấn thương quá nặng nên anh D. đã tử vong.

Điều đáng nói là sau khi gây tai nạn, tài xế lái chiếc xe bỏ chạy, người dân sống quanh đường liền hô hoán đuổi theo, phải hơn 6km thì chiếc xe mới dừng lại, tài xế mở cửa bỏ trốn. Được biết, gia đình anh Hồ Minh D. thuộc diện khó khăn của xã. Anh được chuyển về công tác tại Công an huyện Kỳ Anh gần 1 năm nay.

Hiện vụ việc đang được phía Công an huyện Kỳ Anh điều tra làm rõ.

Theo Dân Trí 
Người Kỳ Anh


Read More
Unknown

Tết này, thêm một lần con lỡ hẹn, Mẹ ơi! - Phan Quang Phóng



Xuân này con vẫn xa quê

Thêm một lần con lỡ hẹn, Mẹ ơi!
Đường rợp cờ hoa, báo mùa xuân đoàn tụ
Lại những đêm, Mẹ canh thâu không ngủ
Nghe tiếng xe qua, cứ ngỡ bóng con về.


Bao năm rồi con biền biệt, xa quê
Bữa tiệc khai xuân ngoại nhắc từng đứa cháu
Mẹ ngấn lệ, quay mặt đi cố giấu
Thương con xa, đêm chẳng trọn giấc nồng.

Tiền lương trong tay, con đếm được từng đồng
Nhưng đếm làm sao, nếp nhăn vầng trán Mẹ
Con đếm những mùa xuân, một mình, lặng lẽ
Nhưng đếm làm sao, tóc bạc mái đầu Cha.

Con đếm những ngày rời quê, biệt xứ, xa nhà
Nhưng đếm làm sao tình bao la mẫu tử
Đếm sao hết những đêm con không ngủ
Mong được trở về bên Mẹ giữa vòng tay.

Con đếm thời gian để tiếc nuối từng giây
Nhưng đếm làm sao, được nỗi lòng của Mẹ
Đếm câu Ví Mẹ ru con một thời thơ bé
Nhưng làm sao đếm hết được giọt mồ hôi.



Hơn hai ngàn ngày trôi đi nhanh quá Mẹ ơi!
Con ước sao đưa bàn tay níu lại
Con cứ ước giá mình còn thơ dại
Được khạo khờ, ngủ gật tựa lưng Cha.

Con ước mình đã chẳng phải đi xa
Vì cuộc sống mưu sinh, vì cơm áo
Nơi xứ người, giao thừa nghe tiếng pháo
Lại rưng rưng ngấn lệ nhớ quê nhà.

Bữa cơm anh em chung nhau quả trứng gà
Vẫn nhìn Mẹ rồi cười đùa tíu tít
Vài ba tháng mới có thêm bữa thịt
Còn ngây thơ tị nạnh miếng nhỏ, to.

Mỗi xuân về con lại đắn đo
Tiếp tục tha hương hay chọn về với Mẹ
Vì tương lai con gạt đi dòng lệ
Thêm một lần con lỡ hẹn Mẹ ơi!


Phan Quang Phóng
Người Kỳ Anh


Read More
Unknown

Kỳ Anh quê choa - Răng tê mô rứa bây tề...



KỲ ANH QUÊ CHOA

Răng tê mô rứa bây tề
Sắp đến Tết có định về hay không ?
Quê nhà cha mẹ chờ mong
Anh em trông đợi mà răng chưa về ?




Mấy đứa em cứ tỉ tê
Đợi anh chị để nhận quà đón xuân
Quanh năm vất vả gian truân
Chỉ lo làm việc mà không nghĩ gì

Sắp đến Tết lại nghĩ suy
Về hay ở lại có khi chạnh lòng
Đời người xa xứ long đong
Kiếm từng đồng bạc chỉ mong ợ nhà

Mọi người vui vẻ chan hoà
Anh em cha mẹ được là bình an
Phương xa dấu có gian nan
Vẫn mỉm cười với thế gian một mình

Ai đi xa vẫn chung tình
Tình người ấm áp chớ khinh quê nghèo
Tết ni lắm đứa trèo đèo
Nhiều đứa lội suối vèo vèo về quê


Lưa đứa mô còn say mê
Hay vì công việc chưa về nữa không ?
Riêng tau thì vẫn nhớ mong
Trời tây chết dĩ nỏ mong chi về

Bựa ni lại hâm ba rồi tề
Ông táo cưỡi cá về trên thiên đình
Ở xa nghĩ chuyện linh tinh
Tại không về tết nên mình mất vui

Có rượu bia ta cứ khui
Đắm chìm men rượu chôn vùi nhớ quê
Một khi mà đã phê phê
Biết mô tau lại đi về thăm quê
Chuyện đời rắc rối rứa tê
Ai tính được chuyện đi về đón xuân
____________________________
Công Văn Nông
Moscow 01/02/2016
Thân gửi page nỗi niềm của những người con Kỳ Anh

Người Kỳ Anh



Read More
Unknown

Xuân Xa Xứ - Thơ Rong Rêu



Xuân Xa Xứ - Thơ Rong Rêu (Võ Xuân Tùng)

Mẹ..!
Năm này con đón tết trời tây
Xuân bên này không đào mai rực rỡ
Lạnh tê người, tuyêt bốn bề trắng xóa




Con nhớ nhiều cái tết của làng quê
Thèm lắm bữa cơm lúc ở xa mới về
Cùng gia đình quây quần đoàn tụ
Bên chén rượu thơm, chuyện trò đủ thứ

Chen lẫn tiếng cười của đám trẻ thơ
Con thèm lắm những buổi sáng tinh mơ
Phiên chợ quê lúc mặt trời chưa mọc
Những món hàng, tiếng mời chào mộc mạc

Con ấm lòng hơn cả chốn phồn hoa
Mẹ ơi bên này con ở chốn người ta
Nên tết Việt đâu có gì đặc biệt
Bởi người tây vẫn hăng say công việc

Còn người mình cũng việc nọ việc kia
Bởi thế nên giây phút giao thừa
Đâu đoàn viên, đâu niềm vui sum họp
Người quán hàng, người hành nghề đầu bếp

Sáng tinh mơ tất bật đến tối ngày
Con ước mong đến một ngày mai
Một mùa xuân con trở về đoàn tụ
Đón tết quê như những ngày xưa cũ
Rộn tiếng cười như tiếng pháo khai xuân.


- Rong Rêu
Người Kỳ Anh


Read More
Unknown

Tiếng Lòng Con - Thơ Rong Rêu



Tiếng Lòng Con

Tết lại về rộn ràng khắp nơi nơi
Vậy mà con vẫn còn xa ngàn dặm
Đường dài thật dài con bước trong im lặng
Đón xuân về lạc lõng giữa trời tây




Con ước mình như thủa bé thơ ngây
Chạy loanh quanh đòi quà ngày tết đến
Bên vòng tay những người thân yêu mến
Thức suốt đêm dài trông nồi bánh chưng xanh

Bếp lửa hồng ấm áp suốt năm canh
Còn thơ dại con nào đâu hay biết
Những điều giản đơn mà biết bao tha thiết
Lớn lên rồi ta lại dễ lãng quên

Chắc bây giờ mẹ vẫn trằn trọc từng đêm
Căn nhà trống không hai bóng người lũi thủi
Cha con chắc còn đang bên bếp củi 
Có đôi lần, ánh mắt dõi xa xăm

Mẹ vẫn luôn tay xếp đặt chổ còn nằm
Dẫu chiếc giường từ lâu để trống
Bởi bon chen, bộn bề cuộc sống
Con cũng đành cất bước xa quê



Để giờ đây khi mỗi lúc xuân về
Lòng tái tê dõi mắt xa ngàn dặm
Đâu bánh chưng xanh, đào mai đua thắm
Chỉ một vùng trời tuyết trắng mênh mông

Mẹ ơi đừng dõi mắt ngóng trông
Con chẳng về đâu lại thêm lần lỗi hẹn
Tha thứ cho con vì đã trưởng thành khôn lớn
Vẫn để mắt mẹ hiền thêm những dấu chân chim...


- Rong Rêu
Người Kỳ Anh


Read More
Unknown

Làng tôi gần tết - Người Kỳ Anh



Làng Tôi Gần Tết.

Bên ả gin xong chưa.
Bên tui vẫn năng bừa.
Mần cả sớm cả trưa.
Mà việc vẫn cứ thừa.




Cun nớ ngái về chưa ?
Tui mới về một đứa.
Mai mốt về đứa nựa.
Chắc nhẹ tay một nữa.

Bên bà có tết chưa ?
Ông ơi tui chưa có.
Đang mắc đi gieo ló.
Mà tiền cụng chưa có.
Đang đợi nó gửi về.

Cuối năm việc trăm bề.
Lo loay xoay ngoài rọng.
Rét đau cả ci họng.
Mà cụng phải đi mần.
Cho kịp xạ kịp dân.


Bà chỉ có một thân.
Ham mần chi cho lắm.
Mần đến 4-5 sào.
Mà vẫn đòi mần nựa.

Ngay hết rồi mô nựa.
Về sửa lại nhà cựa.
Tết nó đến rồi tề.
Ko mấy đứa Nam về.
Nó buồn thì cụng tội.

Cun cụng đang vội.
Nghỉ tết là lên xe.
Cùng bạn bè về tết.
..
Thôi mần thêm cũng đâu hết.
Để lại qua năm mần.
Dừ rửa tay rửa chân.
Ta về lo đón tết...
...
Chuyện làng tôi gần tết.
Không nói hết bạn àh.
Tôi chỉ muốn về nhà.
Giúp cha già đang đợi.

Giúp mẹ mua áo mới.
Thay cái chiếu cái chăn.
Sửa cái nhà cái cửa.
Thôi mình  ko nói nữa.

Mắt mũi đã cay rồi.
Nghĩ lòng thấy bồi hồi.
Nhớ nơi ấy làng tôi..
...

Thêm mấy câu thơ, bạn đọc bình luận:

"Nhà bây cấy xong chưa
Nhà tau vại xong rồi
Mà giờ về chết rét 
Lạnh chi lạnh sinh ghét

Run cả một tâm hồn"
Bá Vương Chi Mộng

"Chắc nhẹ tay một nửa
Năng mắc đi vại ló
Lo loay hoay ngoài rọng
Mần đến bốn năm trào

Cả mấy đứa nam về
Cun nớ cụng năng vội
Mần thêm cụng nỏ hết
Để đó năm sau mần

Sửa cấy nhà cấy cựa
Thôi mình khôông nói nựa
Mắt mụi đạ cay rồi

Lòng nghị cụng bồi hồi"
Thanh Trần

Người Kỳ Anh


Read More
Unknown

Hà Tĩnh: Trâu bò chết hàng loạt vì giá rét ở Kỳ Anh



Do thời tiết rét đậm dưới 5 độ C kéo theo mưa phùn cả ngày khiến bà con nông dân huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh đang vô cùng khốn đốn vì trâu bò chết hàng loạt.


Trâu bò chết hàng loạt, nỗi buồn lớn của bà con nông dân



Trong 3 ngày qua tại các xã như Kỳ Văn, Kỳ Thư, Kỳ Hợp, Kỳ Sơn… của huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh đã có hàng chục con trâu bò chết do thời tiết rét đậm gây ra.

Được biết, do ảnh hưởng của không khí lạnh có cường độ mạnh nên ngày hôm nay (25/01) ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ tiếp tục xảy ra rét đậm, rét hại diện rộng và tiếp tục duy trì từ nay đến 27/1. Do vậy, sáng nay ở thôn Minh Châu, Kỳ Hợp, Kỳ Anh đã có hai con trâu của gia đình ông Nguyễn Văn Ninh và của một hộ gia đình khác đã chết.

Ông Ninh cho biết: Con trâu của gia đình ông mới mua về được hơn 10 ngày với giá 37 triệu đồng. Do ảnh hưởng của đợt rét đậm nên tối qua con trâu của gia đình ông đã bị chết, nhiều người đến mua con trâu của gia đình ông chỉ với 7 triệu đồng, dù rất tiếc nhưng để vớt vát đồng tiền trả nợ nên ông đành phải bán. Ông Ninh cũng cho biết thêm, hiện nay trâu bò trên địa bàn chết rất nhiều nên cũng bị các chủ lò mổ trâu bò đến ép giá.

Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Văn Đồng – trưởng thôn Minh Châu cho biết: chính quyền địa phương đã khuyên cũng như thông báo tới các hộ chăn nuôi cần giữ ấm cho đàn gia súc và chủ động nguồn thức ăn cho trâu bò. Tránh chăn thả cũng như đảm bảo chuồng trại được giữ ấm cho trâu bò. Vì một số gia đình chủ quan không đốt sưởi cho trâu bò dẫn tới hậu quả đáng tiếc, gây tổn thất lớn tới kinh tế của các hộ dân.

Bên cạnh các biện pháp phòng chống cho đàn gia súc, người dân cần phải chủ động nguồn thức ăn tươi xanh, giữ ấm cho chuồng trại cho trâu bò trong đợt rét đậm này.


Theo Gia Đình Xã Hội
Người Kỳ Anh


Read More
Unknown

Tập thơ "Thức với Đèo Ngang" cảm hứng Kỳ Anh của thầy Nguyễn Tiến Chưởng.




(Người Kỳ Anh) Thầy giáo, tác giả Nguyễn Tiến Chưởng (nguyên hiệu trưởng trường THPT Nguyễn Huệ) vừa cho ra mắt tập thơ" Thức với Đèo Ngang" do Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.




BÊN BÓNG HOÀNH SƠN

Một dải non xanh sóng vỗ bờ
Ân tình sâu nặng tự ngàn xưa
Bể dâu bao độ hồn neo lại
Bên bóng Hoành Sơn ngân tiếng thơ.

TIẾNG CUỐC ĐÈO NGANG

Lạ kỳ tiếng Cuốc Đèo Ngang
Bao năm kêu dọc thời gian với người.
Đìu hiu cả những khoảng đồi
Tiếng Cuốc kêu cứ bồi hồi con tim
Khát khao biển cũng đi tìm
Miên man con sóng chẳng im chân đèo
Trời trong veo, biển trong veo
Hoa sim tím ngắt giữa chiều hoàng hôn
Tiếng Cuốc vách đá bồn chồn
Người đi lòng cứ vọng hồn nước non.
                                       1998
  

TỰ LẮNG TIM MÌNH

Chưa ăn một quả sim Đèo Ngang
Chưa uống một ngụm nước trong khe Bàn Thạch
Thế thì làm sao mà hiểu hết
Cái ngọt ngào của đỉnh Đèo Ngang.

Thôi thì cứ lên Đèo để hưởng cái mênh mang
Của biển cả và nắng vàng khoáng đạt
Cứ lên Đèo để nghe gió hát
Nhận ra cái hơi ấm dưới chân mình của đất ông cha.

Cứ lên Đèo để ta hiểu lòng ta
Bậc hậu sinh ta nhận nhiều quá thể
Một ngọn cỏ Đèo Ngang xanh máu bao thế hệ
Ta tự lắng tim mình giữa thủy mặc Đèo Ngang


VỚI NHÀ THƠ PHẠM TIẾN DUẬT

Anh qua đây mấy lần
Tôi không hề được biết?
Anh viết thơ “Đèo Ngang”
Làm lòng tôi thổn thức.

Nhớ một thời ác liệt
Bom thù xé nát Đèo
Xe âm thầm vượt dốc
Phía chân đèo sóng reo

Đèo bây giờ vẫn vậy
Tiếng Đa Đa vọng chiều
Đường hầm xuyên ruột núi
Thơ Anh, người mang theo.

“Đèo... dọc”(*) người nhớ nhiều
Mùa xuân mai vàng nở.
Máu nhuộm đỏ lưng Đèo
Dễ mấy ai còn còn nhớ!
                                        Đèo Ngang 6 – 2007
(*) : Ý thơ Phạm Tiến Duật

  
HỎI CÂY, HỎI ĐÁ

Núi Hoành Sơn “Nhất đái”(*)
Ông cha đã dặn rồi
Đừng làm chi khờ dại
Hoành Sơn Quan cao vời.

Non xanh và biển biếc
Máu thịt biết bao đời
Hỏi cây, hỏi đá núi
Sẽ biết tình đầy vơi.

Đừng nghĩ sông thì chảy
Đừng nghĩ sóng thì reo
Chảy, reo gì cũng phải
Lắng tiếng Cuốc lưng đèo.
                     Tháng 6 – 2014

(*) Ý câu Sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm


KỲ ANH QUÊ HƯƠNG

Không có Đèo Ngang chắc không có Kỳ Anh
Không Vũng Áng không có tàu vào cảng
Dòng sông Trí trong xanh thơ mộng
Mẹ nhân từ sáng mãi “Thập Kê minh”(*)

Bàn Độ ngàn đời sánh Tượng Lĩnh cao xanh
Câu ví dặm lung linh hồn xứ sở
Thơ Bà Huyện cho lòng ta rộng mở
Trấn Dinh Cầu linh địa vẫn uy nghiêm.

Người Kỳ Anh nhân hậu, bao dung
Chấp hết bão dông, kẻ thù man rợ
Quý thương nhau làm nên làng xã
Đất Anh hùng, lời Mẹ ấm vành nôi...

 Kỳ Anh hôm nay đã đổi thay rồi
Bình minh đến mỗi ngày thêm mới lạ
Tàu vào cảng tiếng còi vui rộn rã
 Hàng bốn phương về náo nức mọi đường quê.

Trên đỉnh đèo giọng ai hát say mê
 Khu công nghiệp tiếng búa dồn cọc móng
Ống khói cao vươn lên bao ước vọng
 Làng quê giờ đô thị hóa...niềm vui.

Đã hiện hình Thành phố cảng tương lai
Mùa xuân đến cỏ cây khoe lộc biếc
Tiềm năng dậy cùng người lên hạnh phúc
 Hoa mai vàng rực nắng ấm quê hương.
                                                              Kỳ Anh 2014

(*) “Kê Minh thập sách” của Thánh Mẫu Bích Châu.

Người Kỳ Anh


Read More
Unknown

Mùa quýt ngọt bên sông Rào Trổ (vùng thượng Kỳ Anh)




(Người Kỳ Anh) Những ngày cuối năm, chúng tôi có dịp ghé vào các vườn chuyên canh trồng cây quýt sáp, quýt tắc, quýt ngọt ở xã Kỳ Thượng, Kỳ Lâm… nằm hai bên bờ thượng nguồn sông Rào Trổ, thuộc huyện Kỳ Anh.




  • Bút ký của Nguyễn Ngọc Vượng

Quýt khốp vùng thượng Kỳ Anh - miền thương, nỗi nhớ

Dẫn chúng tôi dạo quanh trang trại quýt của mình ở khu vực động Nhà Hòi, ông Võ Văn Minh (52 tuổi, ở thôn Tân Tiến, xã Kỳ Thượng) phấn khởi: “Hàng chục năm về trước, khu vực này còn hoang vắng, nhà dân thưa thớt, đi lại khó khăn. Nhưng sau khi chúng tôi lên đây nhận đất, khai hoang, cải tạo trồng cây quýt sáp và quýt tắc; nhờ phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, đặc biệt có nguồn nước sông Rào Trổ kết hợp với chăm sóc đúng khoa học kỹ thuật nên cây quýt phát triển rất tốt, có chất lượng, sản lượng quả đều và nhiều. Cứ đến mùa thu hoạch là thương lái khắp nơi nườm nượp đổ về thu mua tại chỗ với giá cao. Và cũng nhờ có cây quýt, gia đình tôi từ chỗ hai bàn tay trắng, nay đã có của ăn của để dư dả...



Các xã vùng thượng huyện Kỳ Anh lâu nay được biết đến là vùng có nhiều lợi thế về đất đai, địa hình cho phát triển trồng trọt. Trong đó, cây Quýt bản địa và cây Quýt ngọt đã gắn bó bao đời nay với bà con nông dân nơi đây. Phát huy được lợi thế do thiên nhiên ưu đãi, bà con nơi đây đã không ngừng khai hoang, cải tạo đất đồi vốn hoang sơ để trồng trọt các loại cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng. Chính vì bám vào nương rẫy, trang trại để phát triển cây trồng nên đời sống của bà con nơi đây đang khấm khá lên từng ngày bằng những trang trại chuyên canh trồng cây Quýt ngọt và cây Quýt bản địa.



Gắn bó với nghề trồng Quýt hơn 10 năm nay, đến thăm mô hình trồng Quýt ngọt và cây Quýt bản địa của hộ gia đình  bà  Nguyễn Thị Thanh ở thôn Bắc Hà- xã Kỳ Lâm. Với diện tích trang trại rộng hơn 2 ha, gia đình bà đã trồng hơn 2.000 gốc Quýt ngọt và Quýt bản địa. Bà cho biết; “ Nếu thời tiết thuận lợi, thiên nhiên ưu đãi, bình quân mỗi năm có thể thu nhập hơn 70 triệu đồng”



Không chỉ ở Kỳ Lâm, cây Quýt  được trồng nhiều ở thôn Tân Tiến, Tiến Vịnh, Tiến Quang, Tiến Thượng, Bắc Tiến và Trung Tiến ở xã Kỳ Thượng. Có một đặc trưng là Quýt bản địa không thể sống độc lập mà bất di, bất dịch nó chỉ tồn tại và phát triển khi được sống chung với cả quần thể thực vật, nó luôn cần sự chở che của loài cây khác mà không cần quang hợp ánh sáng. Đặc biệt, khi được trồng xen kẽ với tranh, tre, khế, bưởi gió trầm là hết sức lý tưởng.



Thực tế cho thấy, Quýt là loại cây dễ trồng và hầu như khắp mọi nơi, Quýt còn được chưng trong mâm ngũ quả ngày Tết của nước ta hay được trồng trong chậu trang trí thể hiện sự phồn vinh thịnh vượng. Cây Quýt là một cây nhỏ, lá mọc so le, mép có răng cưa nhỏ mau, lá nhẵn thơm, vỏ cây cũng có mùi thơm. Hoa nhỏ màu trắng, mọc đơn độc ở kẽ lá. Quả hình cầu, hai đầu dẹt, khi chín màu vàng cam đỏ, vỏ mọng, nhẵn bóng, hơi lồi lõm dễ bóc, trong có những múi xếp hình nan hoa bánh xe. Khi chín ăn ngọt ngon. Trong múi có chứa nhiều hạt. trên thực tế hiện nay khó có nhiều loại quýt như Quýt ngọt, Quýt chua, Quýt xốp….. nhưng tất cả các loại quýt vỏ quả đều dùng làm thuốc được.



Xã Kỳ Thượng có diện tích đất tự nhiên hơn 13.000ha, trong đó gần 100ha trồng cây quýt tắc, quýt sáp kết hợp trồng xen cây dó trầm, cam đường…
Hiện xã Kỳ Lâm có 3.644ha đất tự nhiên, trong đó hơn 30ha chuyên trồng quýt ngọt, bình quân mỗi năm thu nhập gần 2 tỷ đồng.
Quả quýt tắc, quýt sáp, quýt ngọt ở bên sông Rào Trổ có đặc điểm hình cầu, to hơn quả quýt thường, phần đuôi lõm sâu và thường chuyển sang màu đỏ nhạt trước khi chín đều, vỏ dày, múi quýt mọng và cong như hình lưỡi liềm có vị thơm, thanh, ngọt, bùi và mát. Đặc biệt, đối với quýt tắc, ngoài giá trị về kinh tế, giá trị dược liệu, còn có giá trị trong việc chế biến các món ăn dân dã truyền thống như vỏ quýt dùng nấu rươi, thịt, kho mắm, hầm cá đồng, nấu lẩu… Lá quýt cũng có thể đem pha chế nấu món dã cầy tuyệt vời.

Ảnh Nguyễn Ngọc Vượng, Mạnh Hải
Người Kỳ Anh 


Read More
Unknown

Chim Cu Kỳ, Cụp, Tôm hùm - đặc sản chỉ có ở biển Kỳ Xuân, Kỳ Anh



(Người Kỳ Anh) Ngoài vẻ đẹp hoang sơ, huyền ảo, tại bãi biển Kỳ Xuân sẵn có rất nhiều loại hải sản tươi sống “đặc sản” mà hiếm vùng biển nào được thiên nhiên ban tặng như vậy, nào là mực nháy, cụp, tôm hùm, cu kỳ, lệch, sò huyết, sò mai, sò điệp, ngọc nữ, vẹm, cá vược, cá mú… 

Con cụp, đặc sản biển thơm ngon chỉ có ở vùng biển xã Kỳ Xuân

Bãi biển ở Kỳ Xuân nằm dựa lưng vào các ngọn núi nguyên sinh  Tượng Lĩnh, núi Vàng, núi Sơn Tịnh… bên cạnh những ngôi làng chài thấp thoáng càng làm cho phong cảnh núi non - biển cả trở nên hấp dẫn, hữu tình đẹp như tranh. Với một bờ biển dài 13 km, đây là một trong những bãi biển vẫn còn  giữ nguyên vẻ đẹp hoang sơ, nước biển trong xanh với  bờ cát dài và trắng mịn. Cách mép nước vài chục mét, những hàng phi lao xanh ngút góp phần làm cho bãi biển Kỳ Xuân trở nên hấp dẫn đối với du khách mỗi khi đặt chân đến đây.



Kỳ Xuân là xã bãi ngang vùng ngoài thuộc huyện Kỳ Anh, gồm các thôn Quang Trung, Nguyễn Huệ, Xuân Phú, Trần Phú, Thắng Lợi… với dân số gần 7.000 người, ngư dân chỉ 30%, nông dân 70%. Các năm trước, do hạn hán và thiên tai mưa bão liên tiếp, nhiều người dân đã bỏ ruộng nương vào TPHCM, Bình Dương, Đồng Nai, Đăk Lăk, Gia Lai… tìm việc làm, số khác đi xuất khẩu lao động, vì thế người dân nơi đây đang rất kỳ vọng du lịch biển Kỳ Xuân sớm được đầu tư xứng đáng để con em địa phương trở về quê hương phát triển kinh tế, cải thiện cuộc sống, vươn lên thoát nghèo.


Tuy đang bước vào những ngày hè, nhưng bãi biển Kỳ Xuân không ồn áo, náo nhiệt, chật kín người như ở những nơi khác. Trong những năm gần đây, biển Kỳ Xuân đã thu hút khá đông một lượng du khách ở khắp mọi nơi đổ về,  góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho nhiều bà con ngư dân. Ngoài vẽ đẹp hoang sơ, biển Kỳ Xuân còn được du khách biết đến với những món ăn đặc sản mà ít còn vùng biển nào  được thiên nhiên ban tặng như đó là chim Cu Kỳ, Cụp, Tôm hùm, mực nháy, cá mú….  Là những đặc sản chỉ ở có biển Kỳ Xuân. Theo ước tính; Bình quân mỗi năm, xã Kỳ Xuân khai thác được 450 tấn thủy hải sản. Nhờ có bãi biển đẹp, chưa có bài tay khai thác của con người nên mỗi năm, xã Kỳ Xuân đã đón hơn 10.000 lượt khách du lịch, góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội địa phương phát triển. Anh Nguyễn Văn Tuấn, một du khách đến từ thành phố Hà Tĩnh cho biết: “Tôi thấy bãi biển này có dòng nước rất xanh, bãi biển rất rộng và đặc biệt giá cả các mặt hàng ở đây được bán rất hợp lý, không có việc chặt chém du khách như ở các điểm du lịch khác”.


 Là xã nằm ở vùng biển ngang, đất đai sản xuất nông nghiệp hạn hẹp, Do đó, phát triển du lịch  biển  được xem là một trong những mũi nhọn của xã Kỳ Xuân, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn mới.  Nhờ có bãi biển đẹp, có bàn tay khai thác của con người nên mỗi năm, xã Kỳ Xuân đã đón hơn 10.000 lượt khách du lịch, góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội địa phương phát triển.


 Với tiềm năng lợi thế của bãi biển Kỳ Xuân, địa phương đã quy hoạch xây dựng đề án phát triển du lịch, xem đây  là một trong những mũi nhọn của địa phương trong những năm tới.  Ngoài phát huy tiềm năng lợi thế của địa phương, sau khi tuyến đường kinh tế ven biển hoàn thành sẽ tạo điều kiện thuận lợi để du khách gần xa có thể đến với biển Kỳ Xuân ngày càng nhiều, thúc đẩy du lịch biển. Nhằm đánh thức tiềm năng lợi thế này
Người Kỳ Anh


Read More
Unknown

Lịch sử giáo xứ Đông Yên, Kỳ Lợi từ năm 1879 – 2015




Phần 1: Giáo Xứ Đông Yên được hình thành
[Đang biên tập]

Năm 1879 có ba thuyền trẩy đi trên biển, bị phong ba xô dạt vào bờ biển làng Kênh Hà. Số người đi trên thuyền trẩy được lên bờ an toàn, nên họ lấy chổ đó, là đất lành chim đậu. Sau xin lập cư ở đó và đưa toàn bộ các gia đình gặp phong ba về ở thuộc làng Kênh Hà. 
 Năm 1880, có một thuyền làm nghề đăng trên sông Quyền, (tên gọi là ông Vựng). Quê ở Cửa Lò, Nghệ An. Trên thuyền nghề đăng, có hai vợ chồng và sáu đứa con trai. Cũng xin lập cư ở đó, dần dà quy tụ lại được khá đông, khoảng 200 người là những thành phần Kitô hữu, nên sớm hôm họ kinh nguyện địa điểm quy tụ là phía bắc làng Kênh Hà.
Trong thời gian đó, Kênh Hà muốn tách đạo đời cho rành, nên họ đặt lại Eo Đời và Eo Đạo. Năm 1880: Ông Vựng cùng với sáu đứa con trai tình nguyện xây cất một ngôi nhà nguyện, đã được bà con ủng hộ nên ngôi nhà Nguyện, được thành công trên mảnh đất Eo Đạo.
Năm 1881, Eo Đạo thuộc diện “ở độ”, nên họ đặt lại họ Eo Kinh. Sinh sống ở đó để họp chợ lấy người.
Năm 1889, ban hành giáo họ Eo Kinh bàn với giáo dân, xin làng Eo Đời tách ra, vì “ở độ” thì không có quyền lợi gì, được mọi người đồng ý chia tách. Thế là Ban Hành Giáo Họ lên xin phép Cha địa hạt Kỳ Anh: Là Cố Khanh (là linh mục thừa sai người Pháp): Nhờ Ngài giúp đỡ việc chia tách cho phù hợp, Cố Khanh đã đồng ý và giao cho các ông có trách nhiệm đến gặp ban ( Lý trưởng hành kiệm) làng Eo Đời, để xin tách Eo Kinh về nơi khác, nhưng làng Eo Đời không cho, sau đó Ban Hành Giáo lại lên trình với Cha địa hạt, thì Ngài giao cho Ban Hành Giáo lập “ tờ quyên lên” viết chữ đề trong bảng. Sau khi trình lên ban lý trưởng hành kiệm họ đồng ý nhưng phải theo luật làng, bỏ ra ba cái thăm số 1, số 2, số 3. Nếu các ông bắt được thăm số 1, thì được chia tách và họ quy định thời gian bốc thăm sau ba ngày: toàn bộ giáo họ Eo Kinh cử Cố Im trưởng ban hành giáo họ đến bốc thăm, Cố đã bắt trúng thăm số 1, sau đó Ban Hành Giáo đến trình với Cha địa hạt: Họ Eo Kinh đã được chia tách, nhờ Cha xem chổ ở  cho giáo họ, Cha Hạt đã xem địa lý, và chọn vùng đất Xuân Điện: vì đó có cây Đa cổ thụ nằm ở phía nam gần giáp ranh giới đất làng Eo Đời. 
 Cha Hạt lấy cây Đa làm mốc Xuân Điện: từ đó ông cha có câu ví rằng:
“ Xuân Điện có cây đa ba nhánh chín chồi
Xin mời về Xuan Điện mà ngồi cây đa chín chồi”
Từ đó dân làng đã đào một cái giếng (gọi là giếng ông Lê), Cha hạt cho phép tháo gỡ nhà thờ họ Eo Kinh về đặt tại đất Xuân Điện. Từ đó được gọi là họ Xuân Điện và được ổn định từ đó.
Năm 1898 số nhân danh lên tới 500 người, do đất chật người đông, nên muốn lấn đất Phác Môn, thấy khó khăn quá, Ban Hành Giáo Họ Xuân Điện đã đến trình  với Cha Quản hạt, để nhờ Ngài giúp đỡ, Cha hạt đã đến gặp lý trưởng hành kiệm làng Phác Môn, xin nhường cho họ Xuân Điện một ít đất ở. Phác Môn hoàn toàn không cho, ‘sau tạu thời không bán’. Từ đó Cha hạt phải mất nhiều công sức nhờ Quan huyện can thiệp, giúp đỡ nhưng cũng không được. Ngài lại tiếp tục đi vào Huế tâu với Bộ, Bộ đã đến tại vùng đất Phác Môn để xem xét. Sau đó: Bộ đã thư ra cho dân Phác Môn, ‘Đất nhượng về cho Cố’.
Nhưng Làng Phác Môn đồng tình không ký một người nào, Quan huyện nhổ hàng rào đập ông Cựu Què làng Phác Môn sáu lẻ. Quan bảo: đục hai gông, giải Cựu Què,Phù Diếu đến chổ làm việc và Cố Khanh giao cho các ông họ Xuân Điện lấy mốc từ Anh Miều bước 2000 bước đến đâu thì đóng mốc ở đó: Sau khi các ông bước đến mồ “ông Mạn” mới được 1000 bước, các ông thấy dài lắm rồi, nên xin Cố Khanh đóng mốc ở điểm đó, Cố Khanh đã đồng ý với các ông thế là đất họ Xuân Điện được “Khẩn” từ mồ Ông Mạn cho đến Cửa Anh Miều.
Đất Phác môn muốn “xiêu”, sinh chuyện này chuyện nọ:
Năm 1910, Cố Sung Bường chết được an tang tại vùng đất đã được chia ranh giới giữa Phác Môn và Xuân Điện, Phác Môn bức xúc không cho an táng ở nơi quy định vùng nghĩa địa mới của Xuân Điện nên xác ông Sung Bường phải quàn lại ba ngày đến ngày thứ tư: Họ Xuân Điện quyết định: chôn xác ông tại nơi đã quy định. Khi quan tài Cố Bường được đưa ra đến huyệt, thì làng Phác Môn chận đánh tơi bời, vì họ đã chủ động nên đám tang đã bị đổ máu.
Khi Cố Khanh thấy đau thương cho con cái mình, nên ra tay gạt bỏ được người Phác Môn, và xác ông Sung Bường được chôn ở nghĩa địa đó.
Khi được yên ổn trở lại, và được nhập chung xứ Dụ Lộc.
Năm 1930, bề trên địa phận bổ nhiệm Cha Vinh về coi sóc họ Xuân Điện, cũng thời điểm đó lại được tách từ xứ mẹ ra xứ con, Cha Vinh lập xứ: gọi là Dụ Yên Đông, và Ngài quản xứ cho đến năm 1940. Từ năm 1940 đến 1941 Cha Biện quản xứ.
Phần 2: Giáo Xứ Đông Yên hình thành và phát triển:
Năm 1941, bề trên địa phận bổ nhiệm Cha Phước về quản xứ, số giáo dân là 750 người.
Nhà thờ họ bị mục nát. Cha quản xứ bàn với giáo dân lúc này nên làm một ngôi nhà thờ trên vùng đất mới. Mặc dầu giáo dân đồng tình vì đói khát. Nên phàn nàn, Cha xứ đã phải đưa ra một quyết định: quỹ nhà xứ chỉ còn được hai chục thùng lúa. Trước thì cho trai vay, sau lấy tiền thuê “sợ”, toàn thể giáo dân đã nhất trí đồng tình theo quyết định của Cha.
Lúc đó “Trai kẻ rìu người rạ, chặt dàn dáo dàn cu, làng cắt bốn tên phu, len rừng cắt chạc quoại, về làng cũng loại, cũng lấy được ít nhiều”.
Bây giờ cha con trên thuận dưới hòa, vượt qua nhiều giai đoạn đói khát, cố vươn lên quyết tâm xây dựng được ngôi thánh đường.
Năm 1943, Cha vội vui mừng thông báo cho giáo dân biết, Ông Lôộc chủ thợ cho biết, còn mười ngày nữa bốn vì nhà thờ xứ sẽ được cất lên, nhưng sau đó năm ngày, giáo dân lại được tin ở nơi Cha xứ một nỗi buồn là: chủ sợ bỏ về Quảng Bình, lý do: Giáo dân ta quá túng cực thiếu tiền công của sợ nên công việc phải dán đoạn, mặc dầu cha xứ hết sức lo toan tính liệu, nhưng khó khan vẫn chồng chất.
Sau đó với sự soi dẫn của ơn trên, ông cha ta đã có đưa ra một sáng kiến là: phải bán hai người ‘ nhiêu’ thời đó ‘ tức hai thanh niên thời nay’, được người hai chục bạc để chạy hào cựu:
“ Ngồi bàn trên lo trước
Lo việc nước việc làng
Vô thuê thợ về làm
Xin đắp nền đi đã
Sức dân ta chở đá
Đưa về đến tại nền
Xin Cha Cả làm lễ bình yên
Thợ trèo lên Trúc Nghiên
Hô cho trai dựng cột
Hô cho làng kéo chạc
Ơn trong làng trong nác
Cho trên thuận dưới hòa
Việc tiền tài sinh ra
Mua cái gì cũng được
Ước như ta cũng ước
Ao như ta cũng ao
Sóng dục với gió dào
Con chiên ngồi khổ sở
Hết thẳng bụi thẳng bờ
Gió nam thời thổi tạt
Bề trên chưa oát nạt
Ngó ngao ngán ngó ngon
Bề trên thương chúng con
Có bốn tường bốn vách
Có mạo diện tiện từ
Chiều dọc đã bảy mươi
Chiều ngang thời bốn tám (thước nam)
Đến tháng 10 năm 1944, Ngôi nhà thờ xứ Dụ Yên Đông được hoàn thành, Cha quản xứ đã ban lại chủ thánh lễ hoàn thành cho cha quản xứ Xuân Sơn, là Cha Phượng công bố chính thức là xứ Đông Yên, Ngài nói:
“ Trước Con chúc mừng cho cha xứ
Sau chúc mừng cho họ chúng con
Đất Eo Kinh đường dài ngàn dặm
Nay mới được hoán cải Đông Yên chính xứ”
Tháng 12 năm 1944, Cha Phước kết thúc quản xứ Đông Yên được bề trên địạ phận thay về xứ Tràng Hải. Đúng thời điểm đó giáo xứ Đông Yên có tám trăm bổn đạo.
Năm 1944 – 1946 Cha Khoa quản xứ.
Gặp phải nạn đói khủng khiếp năm 1945 (Ất dậu) Cha đã cứu đói cho giáo dân mỗi ngày hai bữa cháo.
Từ năm 1946 – 1957, Cha Bường quản xứ.
Ngài tuổi già tám mươi, bề trên cho Ngài hưởng hưu tại quê nhà xứ Đan Sa.
Năm 1957 – 1960, Cha Phêrô Mai Ngọc Phác phụ trách giáo xứ.
Năm 1960 – đầu năm 1971, Cha Phêrô Vũ Văn Giáo quản xứ. Ngài bị chính quyền tỉnh Hà Tĩnh “kết tội” do xảy ra chiến tranh ác liệt với đế quốc Mỹ: cụ thể năm 1966, máy bay Mỹ oanh toạc đánh phá trên lãnh thổ toàn miền bắc Việt Nam, làm hư hỏng một số cơ sở tôn giáo… cụ thể nhà thờ xứ Dinh Cầu và bắn chết Cha Trương Văn Lộc tại nhà xứ Quý Hòa. Sau đó, chính quyền tổ chức buổi mít tinh, toàn giáo dân xứ Đông Yên và mời cha Vũ Văn Giáo tham dự. Chính quyền làm một bản kiến nghị nhằm tố cáo tội ác đế quốc Mỹ bắn phá nhà thờ trên toàn miền bắc Việt Nam. Cụ thể hai nhà thờ ở Bùi Chu- Phát Diệm. Trong buổi mít tinh đó, chính quyền đề nghị cha Vũ Văn Giáo ký vào bản kiến nghị để tố cáo tội ác đế quốc Mỹ. Cha đọc bản kiến nghị đó, cuối cùng Cha đề nghị với chính quyền phải sửa lại mấy chữ thì Ngài mới ký. Cha nói: Cha con chúng tôi đi tham dự mít tinh, nghe chính quyền nói: Nhà thờ Bùi Chu – Phát Diệm bị máy bay Mỹ bắn phá hư hỏng nặng, nhưng chính quyền quyết định không sửa, nên Cha không ký bản kiến nghị đó. Từ đó chính quyền quy và kết tội linh mục Vũ Văn Giáo là một tay phản động. Sau đó chính quyền tổ chức họp dân Đông Yên để kích động, lấy nhiều ý kiến của dân để phản đối cha xứ mình lý do gì tố cáo đế quốc Mỹ mà Cha không ký, giáo dân muôn người như một phản kháng lại cách làm manh động vu khống của chính quyền, đã kéo dài cho đến năm 1969.
Năm 1970, chính quyền Hà Tĩnh đã viết giấy triệu tập không thời hạn với cha xứ. Giáo dân biết ý đồ của chính quyền giữ cha lại không cho đi, từ đó chính quyền tổ chức hàng trăm công an, bộ đội, để bắt gọn Cha Vũ Văn Giáo.
72 ngày đêm bị chính quyền bao vây, nhưng các bà các chị, các em thiếu niên, không quản giá lạnh của tiết “đại hàn” mang bì đay thay áo ấm, thức ăn là giáu khoai non lấy sức chiến đấu, thế mà hang trăm quân đội của chính quyền phải chịu thất bại. Nhờ sự hy sinh cao cả của giáo dân đến nỗi quên cả tết nguyên đán năm 1971, trước sức mạnh đó, chính quyền Hà Tĩnh đã phải đến Tòa Giám Mục giáo phận Vinh để nhờ giải nguy, để đám đông giáo xứ Đông Yên đang bao vây giữ linh mục chung quanh nhà xứ ngày đêm liên tục đọc kinh ồn ào, biết ý định đó Tòa Giám Mục đã biết cách làm của chính quyền thất bại nặng nề. Mà cuộc chiến chính nghĩa của giáo dân xứ Đông Yên đã lừng lẫy khắp địa phận, vậy Tòa Giám Mục về giàn xếp là linh mục Huyền và linh mục Bài, khi hai vị linh mục về tại giáo xứ Đông Yên thì giáo dân không rõ đó là ai? Nên đã xô đẩy các ngài không cho vào nhà xứ. Sau đó giáo dân đã nhận được là hai linh mục liền mở cửa nhà xứ để hai cha vào gặp cha Giáo. Khi gặp xong, cha Huyền mở tất cả cửa nhà xứ, và Ngài mời tất cả bà con giáo dân cũng như cha xứ, vào nhà thờ để nghe vì cha Huyền là đặc phái của Tòa Giám Mục ngài công bố: “ đây là cái sảy nảy cái ung, từ nay cha xứ tự do đi lại dâng lễ hôm sớm cho bà con và xin mời bà con đừng bao vây chung quanh nhà xứ nữa về an tâm sản xuất”.
Đầu năm 1971, bề trên bổ nhiệm cha Vũ Văn Giáo về quản xứ Tịnh Giang: sau đó: chính quyền Hà Tĩnh có thông báo lại cho giáo dân biết: Linh mục Vũ Văn Giáo thay về xứ Tịnh Giang thuộc thị xã Hà Tĩnh chứ không phải là bắt: thế là cuộc bách hại giáo xứ Đông Yên đã kết thúc.
Cũng từ thời điểm đó, giáo xứ Đông Yên đã trở nên điểm nóng, cần được phá tan của chính quyền tỉnh Hà Tĩnh dưới chế độ cộng sản:
Từ năm 1971 – 1979, cha Giuse  Nguyễn Đăng Điền quản xứ. Ngài chuyên lo cho hai phần xác khỏe hồn an, và cách ăn mặc cũng tiến bước theo xã hội, cha dẫn dắt từng lối bước con chiên, kể cả người bệnh nạo tật nguyền, cha lo lắng con chiên lành ‘bỏ cỏ’, đúng thời điểm đó con số giáo dân xứ Đông Yên lên tới 2600 người, nhà thờ không đủ sức chứa, cha phải chui lòn dưới sự áp lực của chính quyền, để được phép cơ nới, cuối cùng chính quyền đã đồng ý, cha xứ quyết định. Nối dài thêm gần một nữa, cha đã đặt cung thánh, bàn thờ ở giữa để có ý thức cộng đồng hơn.
Nghĩ công cha như trời cao biển cả, chúng con nay biết lấy gì để trả nghĩa đền ơn.
Kể công cha như núi Thái Sơn, như nguồn suối Trường Sơn hằng tuôn chảy.
Khi đời sống giáo dân được phát triển cả hai mặt xác hồn thì cũng là lúc chính quyền Nghệ Tĩnh lại muốn bắt cóc cha xứ vào ngày 1 tháng 5 năm 1979.
Sau ba tháng trời: giáo dân đã khó nhọc tìm cha ra tận Hà Nội, gặp thủ tướng chính phủ ‘Phạm Văn Đồng’ cha xứ mới được chính quyền Nghệ Tĩnh trả lại tự do cho đi làm cha phó xứ ‘Quy Chính’, thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ Tĩnh, và miễn cưỡng thỏa hiệp với Tòa Giám Mục sai cha Cao Xuân Hành về quản xứ Đông Yên. Từ năm 1970 – 1984
Năm 1984 – 1991, cha Giuse Hồ Ngọc Bá quản xứ. Nhà thờ bị xuống cấp vì mối mọt cha hướng dẫn giáo dân xin phép khai thác gỗ, cụ thể giáo dân đã khai thác hàng chục khối gỗ các loại mà thực hiện làm nhà thờ bằng cột ống típ, từ đó cha đã cổ vũ giáo dân đóng góp một phần biển để xây dựng nhà thờ mới trong tương lai.
Năm 1991 – 1994, cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Tuệ quản xứ, cha cùng với giáo dân quyết định,làm mới một ngôi nhà thờ tương đối rộng lớn diện tích 1200 mét vuông, cũng đúng thời điểm con số giáo dân lên tới 3346 người, cha và giáo dân lấy ngày 7 tháng 10 “lễ Đức Mẹ Mân Côi” năm 1993 do cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Tuệ đặt viên đá móng.
Năm 1994 – 1998, cha Antôn Phạm Đức Hưởng quản xứ.
Năm 1998 – 2004, cha Phêrô Nguyễn Xuân Quý quản xứ ‘” nhà thờ giáo xứ Đông Yên khánh thành năm 1994 nhưng đến năm 2001 mới trả hết nợ nhà thờ, vì không có nguồn vốn nên giáo dân quyết định vay nợ làm cho xong”.
Cha Quý đã xây trong khuôn viên nhà xứ hai ngôi nhà khu A và khu B, năm 2002 cha vận động giáo dân, đã làm được 4km đường bêtông hóa bịt kín toàn giáo xứ.
Năm 2004 – 2006, cha Phêrô Nguyễn Thái Từ quản xứ. Cha đã xây dựng một ngôi nhà xứ hai lầu với diện tích 1000 mét vuông và một nhà tiếp khách.
Phần 3: Giáo Xứ Đông Yên Bị Tàn Phá
Năm 2006, bề trên địa phận sai tân linh mục An tôn Nguyễn Quang Tuấn về quản xứ, năm 2006 – 2009 cha xứ và giáo dân được bình an.
Năm 2010, cha Nguyễn Quang Tuấn đã bị anh Mai Văn Hoàng công ty Grobest  người xứ Đông Yên, là một doanh nghiệp mua chuộc quyến rũ khi đó: cha Tuấn đã bàn với hội đồng mục vụ giáo xứ gồm bảy người: Trần Ngọc Quý ‘chủ tịch hội đồng’, Mai Văn Quỳnh, Nguyễn Xuân Tọa, Hoàng Đoán, Mai Xuân Toàn, Mai Thanh Tịnh, Mai Xuân Trị cùng với bốn cán bộ thôn trưởng là: Nguyễn Hữu Bảo, Dương Nhiên, Mai Văn Chất, Nguyễn Chân Lý, đồng thời kết hợp với chính quyền tỉnh Hà Tĩnh, huyện Kỳ Anh bán giáo xứ Đông Yên:   Cả giáo dân lẫn cả công trình tôn giáo như nhà thờ, hai quảng trường Đức Mẹ, trường giáo lý, quảng trường Thánh Phêrô, nhà ở của hội dòng Bác Ái, các công trình nhà xứ. Và dùng mọi thủ đoạn để mê hoặc giáo dân “là tái định cư của nhà nước”.
Tự in phiếu thăm dò có đóng dấu của giáo hội địa phương.
Dùng đủ mọi hình thức để áp bức những người không đồng tình ủng hộ thể hiện việc làm như sau:
Cụ thể năm 2011, cha Tuấn đã chủ xướng bán giáo xứ Đông Yên cho chính quyền Hà Tĩnh thể hiện: làm đơn lên chính quyền Hà Tĩnh  xin cho giáo dân ĐôngYên đi tái định cư mà không tham khảo qua ý kiến giáo dân, sau một tháng cha cùng ban hành giáo đã tổ chức một cuộc họp vào lúc 7 giờ tối. Có 800 hộ gia đình tham dự, đại diện ban hành giáo là ông Mai Văn Quỳnh đọc công văn của ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, nội dung công văn là: “nguyện vọng của nhân dân bốn thôn Đông Yên xin di dời tái định cư 2011 – 2012 để sớm ổn định cuộc sống”. tiếp theo đó cha Tuấn đã làm phiếu thăm dò và cốc con dấu của giáo hội vào phiếu, có hai ô đi và không đi, chọn điểm đến. Ban hành giáo đưa đi phát cho từng gia đình, sau bảy ngày thu lại chỉ được ba mươi phần trăm nhất trí đi. Chiều lễ chủ nhật hôm đó cha xứ công bố: “ ai không ký phiếu thăm dò đi tái định cư, là hạng người dê, sói, chống giáo hội, chống Đức Cha, chống cha xứ, ai không ký phiếu thăm dò có con đi tu tôi không chứng nhận giấy”. Để bảo toàn đồng minh cha đã cách chức ba cán bộ xóm, bốn vị hành giáo, bảy thầy cô giáo lý viên, thay vào đó là những người nhất trí đi tái định cư. Còn riêng cán bộ thôn cha Tuấn mời phòng nội vụ về tại nhà xứ bầu lại và đã được kết quả như ý cha muốn.
Suốt ba năm trời cha xứ đã dùng tòa giảng trong thánh lễ chủ nhật, tuyên truyền việc tái định cư thay cho chính quyền. 
Mặt khác, cha còn nói với giáo dân “cứ xây nhà, mua sắm ngư cụ chính quyền sẽ đền bù từ A đến Z họ không đền tôi sẽ đền cho” từ đó giáo dân đã đua nhau xây dựng nhà, mua ngư cụ.
Đến thời gian đo đạc, thì ban hành giáo và hội  đồng bồi thường hỗ trợ tái định cư huyện Kỳ Anh tiến hành đo đạc, kiểm đếm, cụ thể: ‘ai bỏ tiền phong bì nhiều cho ban đo đạc thì được hưởng nhiều’, kết quả cho thấy: hộ nào tài sản nhà cửa ít thì lại được nhiều tiền, và ngược lại. Chứng minh thế là lợi ích cho một nhóm mà cha Tuấn đã cố công tìm kiếm. Phần ngư cụ phía chính quyền là họ sẽ hỗ trợ cho 70% nhưng sáng lễ chủ nhật tháng 3 năm 2012 cha Tuấn thông báo trở lại: “Ngư cụ của bà con được mấy hào, để cho Tôi đòi cho mỗi khẩu 50 triệu thì hơn”.
Ngày 29 tháng 6 năm 2013, lễ thánh Phêrô quan thầy, cha Tuấn đã thông báo cho giáo dân biết: “Nhà thờ của chúng ta, nhà nước đền bù cho 438 tỷ đồng vn”, nhưng sau đó một tuần, vào ngày chủ nhật cha Tuấn thông báo là: “toàn bộ công trình cơ sở tôn giáo của giáo xứ ta, đền bù chỉ được 29 tỷ 700 triệu đồng”. Đến chủ nhật tiếp theo, cha Tuấn đã đưa quyết định của Đức Cha Nguyễn Thái Hợp GM giáo phận Vinh, dơ lên cho giáo dân biết: “Đức Cha đã bán dấu đỏ bán nhà thờ, ba quảng trường, trường giáo lý,công trình nhà xứ, đất đai và toàn bộ cơ sở của giáo xứ được 70 tỷ đồng” cha Tuấn đã công bố chiều thứ sáu tuần thánh năm 2013: “Tôi mà ra khỏi giáo xứ Tôi sẽ đọc từng tên những thằng học được mấy chữ. Và khi Tôi đã ra khỏi, Tôi sẽ đạp nát cái giáo xứ này” (đúng như cha Tuấn đã phán cho đến ngày hôm nay 13 tháng 10 năm 2015, giáo xứ Đông Yên chỉ thấy từng đống gạch vụn). Quả thực, Cha Tuấn quản xứ thật khó nhọc biết là dường nào.
Nhưng than ôi!


Read More